Từ cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21,
khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, giúp ích cho con người rất nhiều phạm vi
trong cuộc sống. Có điều những tưởng không thể khắc phục được, nhưng khoa học
công nghệ đã can dự vào thì có thể đem lại kết quả như mong muốn, từ những việc
nhỏ nhặt nhất đến những việc to lớn, các nhà khoa học đều làm được cả.
Tạm nói đến tất cả những công việc hàng
ngày cuả tất cả mọi người, mọi nghề nghiệp, từ một em học sinh, đến một bác
nông phu tay lấm chân bùn, ai nấy đều được hưởng những thành quả của khoa học để
đem thành quả đó áp dụng trong đời sống và có thể nói nó gắn liền với nếp sống.
Tuy nhiên có đôi khi nó làm đảo lộn phần nào. Cho đến nay, mặc dù khoa học công
nghệ can dự vào hơn 90 %, nhưng có những cái vẫn còn duy trì từ xưa đến nay khó
tách rời được
Khoa học công nghệ áp dụng vào cuộc sống
làm cho chúng ta bớt rất nhiều sức lao động, nhanh chóng, hiệu quả, đem lại lợi
ích về tiền bạc nhưng đôi lúc có những cái, những việc vì quá lợi dụng vào khoa
học làm cho con người mất đi sự sáng tạo để rồi khi cần thiết không có dụng cụ
thì bối rối không thể xoay xở được. Một em học sinh luôn luôn và được phép xử dung náy tính kể cả lúc vào phòng thi, đơn giản
chỉ cần khai căn một số nào đó hay tính
số đo một cung lượng giác mà không có máy tính thì rất khó có kết quả. Những vật
dụng dùng trong nhà hàng ngày hiện nay làm bằng nhựa, nhôm, sắt rất tinh tế, rất
đẹp. Ngày xưa người ta làm toàn bằng tre, sử dụng đôi tay khéo léo, nếu có kỷ
thuật, mỹ thuật thì cũng đẹp, chắc và đặc biệt ai cũng làm được, bảo quản trong
tất cả mọi thời tiết, môi trường, hư thì làm lại cái khác ngay. Vấn đề sinh tồn,
đối phó với sự thiếu thốn của người xưa chắc chắn cao hơn bây giờ.
SỰ ĐẮC DỤNG CỦA CÂY TRE.
Bất cứ một gia đình nào ở Việt Nam,
hàng ngày đều phải sử dụng đến tăm và đũa trong mỗi bữa ăn. Tăm và đũa người ta
có thể làm bằng gỗ, bằng nhựa nhưng chắc chắn rằng không bao giờ tiện lợi và đẹp
bằng tre. Đó là những thứ nhỏ nhặt. Ngày xưa ở nông thôn Việt Nam, tre là loại
cây đắc dụng và không thể thiếu đối với người dân, từ việc làm cột nhà tạm (tre
la ngà), kèo, đòn tay, rui, mè, hom tranh, lạt buộc, vách phên, chỉ trừ tranh lợp
còn toàn bộ đều làm bằng tre. Nếu chọn tre cẩn thận, tre già, ngâm nước khoảng
trên 3 tháng, tùy theo loại tre để sử dụng vào mỗi việc, làm có kỹ thuật, giữ
gin cẩn thận thì ngôi nhà có thể ở được 10 đến 15 năm là thường. Tre còn sử dụng trong công việc nông nghiệp như lạt bó mạ, lạt
bó lúa, dây cày, dây gàu tát nước, làm cột xây rơm, làm dàn trồng bầu bí, làm
hàng rào nhà cửa, làm cán cuốc, cán chày, cán rựa, cán dao…, ngoài ra những dụng
cụ hỗ trợ khác như đan thúng, mũng, nống, nia, sàng, dần, rổ rá, cối xay, nơm,
nò, sáo, lờ… ; gốc, rễ, nhánh ngọn thì phơi khô chụm bếp; thân non (măng) dùng
chế biến thục phâm… và làm được rất nhiều công cụ khác nữa không thể kể hết.
Nói chung cây tre không thể thiếu và rất gắn bó với người dân nông thôn nghèo của
Việt Nam ta ngày xưa mà bây giờ nó vẫn còn hữu dụng không thể thiếu…
Do vậy mà người dân họ trồng tre quanh
vườn nhà, nhà nào cũng có, để khỏi đi xin hay đi mua của người khác mà lại làm được hàng rào chung quanh vườn nhà khi trồng
phủ hết (bằng hóp hay tre cán giáo) chu vi vườn, độ năm năm sau, bốn phía vườn
có một hàng rào kiên cố rồì.
Trong văn chương thi ca, hội họa người
ta có sử dụng hình ảnh cây tre để diễn tả một điều nào đó như người ta ví Mai,
Lan, Cúc, Trúc cho bốn mùa, hay:
“Gió
đưa cành trúc là đà
Tiếng
chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Hay: “Trúc xinh trúc mọc một mình
Em xinh đứng tựa cột đình cũng xinh”.
Diễn tả hình ảnh quê hương hay nông thôn như cây đa, bến
nước, sân chùa, con đường cái quan mà không có hình ảnh lũy tre, bụi chuối thì
đó là những thiếu sót chưa đủ nói lên hình ảnh đẹp của quê hương được. Thật vậy.
RẠ LENG
Từ “rạ leng” hay “rạ cùn”
bây giờ ít người biết đến, chỉ có mấy người thôn quê quen dùng tiếng địa
phương, khi nói đến là biết ngay thứ gì thôi. Là cây rựa bị gãy cán, dùng lâu
ngày mài mòn còn nhỏ lại nhưng vẫn dùng tốt do thợ rèn chuyên nghiệp, có đạo đức
không làm dối cho nên một cây rựa sử dụng đến khi mòn nhỏ lại bằng ngón tay cái
vẫn còn sắc bén. Vừa gãy cán, vừa mòn người ta đặt cho cái biệt danh “Rạ Leng”.


Nghề đan đát - mây tre
lá - ở thôn quê bị mai một dần bởi sản xuất mà không có đầu ra, ít vốn thì làm
sao đứng vững. Nghề đan đát chỉ là nghề thủ công truyền thống, công nghiệp, máy
móc không tham dự hết các khâu do đó sản xuất bằng thủ công tốn công nhiều mà
thu nhập ít, cân đối sẽ bị lỗ cho nên nghề bị bỏ dần chưa nói đến đồ sản xuất bằng
công nghiệp sử dụng nhựa, nhôm… tràn ngập khắp nơi.
Rựa leng, cuốc cùn bây giờ cũng là những
vật kỷ niệm của nhà nông nó cũng có giá
đối với vài người sưu tầm đồ cổ, tuy nhiên còn có vài nơi, vài chỗ, tất cả những
sinh hoạt, tập tục của ngày xưa vẫn còn duy trì cho tới tận bây giờ trong đó những
vật dụng của một thời theo sát họ, nay không phù hợp hay không dùng được nữa, họ
vẫn cất giữ rất cẩn thận ở một vị trí nào đó trong nhà để làm kỷ niệm như cái
cày, cái bừa, cái liềm, cái vằng, cái hái (dụng cụ cắt lúa), cái đòn xóc, đòn
gánh và tất nhiên có rựa leng, cuốc cùn nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét