Trong cuộc sống đời thường, bao nhiêu
sự việc diễn ra trong quá khứ - nhất là thời thơ ấu – đều được ghi lại trong bộ
nhớ của não một cách rỏ ràng. Nhưng
trong lúc bận rộn cho công việc mưu sinh, tất cả đều bị che lấp, nhường
chỗ cho những tính toan để đối phó với những điều kiện, hoàn cảnh cay nghiệt vấp
phải. Khi về già những tính toan đó không còn mà còn phải vui vẻ sống những ngày
còn lại trong quỷ thời gian của mình thì những ký ức ngày xưa lại hiện về làm
xao xuyến trong lòng, đôi lúc lại cười thầm trong bụng vì những cảnh tượng quá
cách biệt giữa xưa và nay rồi thì mũi lòng, cảm động những gì mình trải qua
trong quá khứ.
Xin nhắc lại một vài chuyện mà tin chắc
rằng ai đã từng sinh ra, lớn lên ở nông thôn thì thế nào cũng gặp phải.
1. Chuyện thắp
thuốc cho ba hoặc ông bà: Ngày xưa, ít ai có được một hộp quẹt bỏ túi để thắp
(đốt) thuốc như bây giờ. Người sang lắm mới có cái “máy đèn” mua ở chợ tỉnh hay
của người thân quen tặng. Ngày xưa gọi là máy đèn. Một hộp chữ nhật nhỏ, hai lớp
làm bằng nhôm, dày khỏang 8 ly, rộng 3 phân, dài chừng 7 phân, kể cả nắp đậy.
Bên trong là ruột đựng bông gòn có tẩm dầu lửa, có một tim bằng sợi vải để dễ bắt
lửa nhô ra ngoài, một trục, bên trên gắn một bánh xe bằng thép, nhám thông với một
ống nhỏ, bên trong ống bỏ viên đá lửa nhỏ bằng que tăm, ngắn chừng 5 ly, được đẩy
bằng một lò xo và con ốc vào cho viên đá luôn tiếp xúc với bánh xe, tay cầm máy
đèn, ngón cái bật bánh xe toé ra lửa, lửa tiếp xúc với tim sẽ thành ngọn lửa nhỏ để
mồi thuốc. Thấy cũng oai đấy chứ.
Ba không có máy đèn.
Giấy vấn thuốc không được cắt sẵn 4 phân
x 7 phân mà cả tờ giấy quyến trắng to đùng, 1 mét x 1,2 mét, mua về xếp lại, có
người xếp thành tám xé vấn dần, có người thì gấp lại nhỏ đàng hoàng, lấy dao rọc
ra từ lớn đến nhỏ, cất bỏ vào bao một ít dùng dần. Còn thuốc thì mùa xuân bắt đầu
trồng quanh vườn, đến mùa nắng, bẻ lá vào phơi khô, xếp cuốn ,bó bằng mo cau cột
giữa bếp, khi hết thuốc xắt thì lấy xuống, xé bỏ xương gân, xếp miếng to không
rách ra ngoài, cuộn tròn lăn thật mạnh thành một cuộn dài chừng 30 phân, lớn gần
bằng ngón chân cái. Lấy một thanh tre khô bằng hai ngón tay, dài khoảng 45
phân, bào nhẳn. Cách một đầu chừng 10 phân, đục một cái lỗ tròn vừa đủ cuộn thuốc
lọt qua, gọi là bàn cắt thuốc. Lấy cây rụa mài thật sắc bén. Tất cả sẵn sàng.
Bàn cắt thuốc đầu trên chống vào nách
người cắt, đầu dưới chống vào giữa nền nhà. Tay trái cầm cuộn thuốc đun dần dần
vào, tay phải tựa theo bàn cắt nhấn mạnh xuống – đưa lên nhấn xuống liên hồi –
thuốc sẽ đứt từng nhát mỏng. Thuốc xắt ra hứng trong miếng lá chuối sạch. Xắt
xong, xé nhỏ thuốc bỏ vào bao hút dần. Bao đựng thuộc làm bằng bẹ chuối khô,
may đẹp xấu, mỹ thuật hay không tuỳ theo. Bao có ba ngăn: ngăn đựng thuốc, ngăn
đựng giấy, ngăn đựng máy đèn.
Mỗi lần hút thuốc, khi vấn (cuộn thuốc
vào trong giấy thành điếu), ba đưa điếu thuốc cho tôi, biểu đi thắp. Khi thắp (đốt)
thuốc thì phải hút thuốc mới cháy thành ra quen dần lớn lên nghiện thuốc. Trẻ
con thôn quê hay hút thuốc là vậy.
2. Cha mẹ đi ra đồng cày, cấy, bón phân hay làm
cỏ nên phải tắt hết lửa củi trước khi đi làm bỡi vì đa số nhà thấp, lợp bằng tranh dễ cháy, đun bếp ba mùa xuân, hạ, thu đều
bằng rơm; củi hiếm để dành cho mùa đông rét mướt, có than để sưởi, bỏ vào lồng ấp
hơ ấm hai tay. Khi cha mẹ về nấu ăn sai con đi hàng xóm, có người ở nhà xin lả (lửa) về nấu cơm, chạy ra sau cây rơm
rút một nắm xoáy tròn bằng tổ chim rồi bóp dẹp lại, một đầu để cầm đầu kia banh
ra bỏ cục than đang cháy vào, chạy nhanh về nhà cho mẹ. Đôi khi lửa bén nhanh
quá chạy không kịp bị lửa cháy phỏng tay.
Ông già bà lão, mùa lạnh ở quê Quảng Trị
mình không có bếp lửa là không ổn. Họ
làm một dụng cụ gọi là lồng ấp, vót tre đan cái lồng, trên có miệng, ở giữa eo
vào để bỏ cái tréc (cái nồi cạn làm bằng đất nung) đựng tro và than, cái lồng để
giữ cho áo quần khỏi dính vào lửa khi ôm lồng ấp.
Mùa lạnh ra đồng, người ta lấy rơm bện
thành “con cúi”, hay “bông mai”, bỏ cục than đang cháy đỏ vào cho bắt lửa, rồi
nó âm ỉ cháy ngún không bốc thành lửa ngọn, giữ lửa suốt ngày đêm tuỳ theo “con
cúi” dài hay ngắn.
3. Về mùa thu hoạch lúa, nông dân rất vất vả, ban ngày đi
gặt lúa, đêm về phải đạp lúa. Thường người ta gặt lúa để ngay ngắn từng đống rồi
lấy lạt (dây cột, cứng) bó thành từng bó dùng đòn xóc (đòn gánh, nhọn hai đầu) đâm vào hai bó lúa đưa
lên vai gánh về chất thành đống cao nghệu, để vài ba ngày cho lúa chính hết mới
đem đạp cho lúa hột rụng ra khỏi rơm. Người ít lúa, không có trâu bò, họ đạp
chân – chân trần, không mang giày bảo hộ. Làm gì có. Cột một cái sào tre ngang
trên bụng vào hai cột nhà để tì vịnh tay vào, mở bó lủa ra chia làm hai hay ba
rồi đứng lên chà xát dẫm bàn chân lên ngọn lúa cho lủa lột rụng hết. Thật là
gian khổ.
Đạp lúa trâu, bò thì khoẻ hơn, nhanh
hơn đạp bằng sức người. Khoảng 5 giờ chiều, hai ba người đàn ông, quét “cươi”
(sân) sạch sẽ, ôm lúa bó mở ra trải lên sân, ngay ngắn thứ lớp đàng hoàng, dày
mỏng còn tuỳ ít hay nhiều lúa bó, thường dày khỏang 40 đến 50 phân, tròn, đường
kín 6 đến 10 mét. Chuẩn bị bổ cào 6 răng, mõ xảy (xảy một, xảy đôi – dụng cụ rủ
rơm, phơi rơm thay cho bằng tay), giỏ đựng phân trâu. Xong xuôi, sáu giờ, sau khi trâu bò đã ăn
no, người cũng ăn xong, cho trâu bò lên giả lúa đi quanh, người điều khiển đàn
trâu bò từ ba bốn con, con đi đầu phải có dây dò mũi. Đi quanh đạp chừng 10
phút nghe người điều khiển hô: Trâu ẻ… trâu ẻ (ỉa) là người phụ ở ngoài bưng giỏ
có lót rơm chạy vào hứng sau đít trâu kẻo trâu ỉa ra lúa, lúc này cả bầy, hết
con nầy đến con khác, liên tục ỉa làm
người phụ ngoài mệt đừ.
Độ một tiếng rưỡi đồng hồ, phía trên mặt
đã rụng, người ta lấy bớt chung quanh, rủ thật lộn búi rải đều lên trên một lớp
cho đi tiếp, nửa giờ sau, lớp này không còn dính lúa hột nũa, lấy cào và xảy
đưa rơm ra ngoài rủ sạch, bỏ thành đống ngày mai phơi. Tiếp tục một hai lần lấy
bớt như vậy khi giả lúa thấp xuống, cho trâu bò nghỉ, ăn cỏ lót dạ, mọi ngươi
xúm nhau rủ búi tất cả số còn lại, sửa sang lại, cũng ăn lót dạ chén cháo gà,
chén chè hay đĩa xôi rồi đưa trâu, bò vào đạp tiếp, khi xem lúa không còn dính
vào rơm nữa, cho trâu ra nghỉ, người rủ sạch hết số còn lại nầy, đưa rơm ra khỏi
sân chất thành đống thì cũng đã 12 giờ đêm. Cứ vậy, ba bốn hôm lại đạp lúa trâu
một bữa cho đến hết mùa.
Với đàn ông thanh niên là vậy, còn với
phụ nữ và trẻ 10 trở lên 18 thì có công việc thường lệ hơn cho mỗi buổi tối.
Như có bảng phân công bất thành văn mà mỗi người phải ghi nhớ để thực hiện. Sau
khi ăn cơm tối xong, mẹ tranh thủ rửa chén bát, dọn dẹp, các con lấy lúa đổ vào
cối xay, mẹ làm xong việc dọn dẹp, dọn nẻn (cái nia), sàng ra, lấy lúa đã xay
sàng vào trong nia, bỏ trấu (võ lúa) ra ngoài, lấy gạo lứt (gạo chưa bóc cám) bỏ
vào cối đá hay cối gỗ giả cho phần cám (võ lụa bám mỏng ngoài hạt gạo) bung ra
hết, phải xem cho kỹ, lúc nầy cám và gạo đã giả trắng trộn lẫn nhau, mẹ lấy nia
trải ra, lấy giần, giần để loại cám xuống
dưới còn gạo lẫn trấu heng (trấu nhỏ) còn lại trên giần. Bây giờ lấy cái trẹt
to (nia nhỏ) sảy cho trấu nhỏ bay hết còn lại gạo sạch hoàn toàn, đổ vào dụng cụ
chứa gạo để mấu cơm ngày mai.
Có ba loại chày giả gạo: Một là chày tay, một khúc gỗ dài chừng 1,4 mét, đường kính chừng tám phân đến một tấc, bào tròn, ở chính giữa đẽo chuốt nhỏ lại bằng cổ tay để dễ cầm, đứng giẩ. Hai là chày đạp, thường để một chỗ cố định. Cối được chôn thấp xuống, chày nặng hơn, giống chữ L, cán chày dài khoảng 2 mét, đầu chày nhỏ hơn , ngắn khoảng 4 tấc, đầu kia, cách đầu chừng 8 tấc, đục xuyên cán chày làm một trục ngang, trục ngang này tựa vào hai cột chôn vững xuống đất, cách nhau chừng 8 tấc. Chày nầy như là một đòn bẩy , người giả đứng phía sau đạp nhún để cho đầu kia cất lên rồi thả xuống, chày sẽ giả vào cối. Chày nầy có thể xử dụng hai người. Ba là chày vồ, chày có cán tre ở giữa như chữ T, chày giả được hai đầu, cán nhỏ dài chừng 7 tấc, nhỏ để dễ cầm, ngồi trên ghế để giả. Giả gạo một người, hai người còn dễ chứ ba, bốn người, thì càng khó. Thứ tự theo vòng quay ngược kim đồng hồ, người này giả xuống cất chày lên tiếp người bên phải cứ như thế hết người thứ tư mới đến người đầu trở lại, rất nhanh không để người khác chờ, cũng không xuống trước sẽ gỏ chày trúng nhau. Khi đã quen, thuần thục thì giả đuổi nhau thi nhau nữa, ai mệt sẽ bỏ cuộc ngay. Đôi khi đánh trúng chày người khác làm chày họ giả vào tai cối làm bể hay sứt mẻ cối.
Thấy cảnh giả gạo chày tư rất thú vị.
Còn sàng, giần, cằn, sảy làm sạch gạo là cả một nghệ thuật, học hỏi, kinh nghiệm
lâu ngày chứ không đơn giản chút nào. Chỉ những bà mẹ quê từng trải mới làm tốt
thôi. Không tin cứ về quê giả gạo làm gạo sẽ biết liền. Trong khoảng 3 ký gạo
trộn chừng 15 hạt lúa, chắc chắn mình sẽ tìm cả giờ chưa hết chứ một bà mẹ quê
sành sỏi họ lấy sàng ra bỏ lên sàng ba phút sau tất cả các hạt lúa đểu nhóm lại
ở chính giữa sàng chỉ lấy tay nhón một cái là xong ngay. Vậy đó
Ai
đã từng có thời son trẻ sống ở vùng nông thôn nghèo mới biết và hiểu được
cảnh cơ cực suốt một thời gian dài, vì chiến tranh, lạc hậu. Giờ tuổi trẻ, đầy
đủ tất cả mọi tiện nghi, vật chất, khoa học kỹ thuật phát triển gấp cả trăm lần,
khi ông cha nhắc đến thời kỳ ấy với
những từ ngữ địa phương nữa cắc chắn chúng sẽ ngơ ngác chẳng biết gi hay hình
dung được như thế nào cả. Còn lớp già sống vào những thời đó thì nay cũng đã 60
tuổi trở lên, gặp nhau đâu đó. Bên tách cà phê tâm sự hay ly trà hàn huyên hay
tranh nhau kể về quá khứ của mình, lòng vướng chút tự hào, chút hoài niệm, chút
ưu tư mà lòng se lại…
Hoàng Kim Liên
4 nhận xét:
Em đăng bài này lên VĂN NGHỆ QUẢNG TRỊ, bác Liên nhé!
Cảm ơn Phú Đ0àn đã đền viếng. Nếu được thì cứ chuyển qua. Chúc vui khỏe.
Tải hình từ festival Huế 2014 vừa qua
https://fbcdn-sphotos-d-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/t1.0-9/923199_726445444042454_2901306160468520536_n.jpg
Cảm ơn Phú Đoàn đã viếng thăm và thêm hình ảnh rất đẹp
Đăng nhận xét